Lăng Đa bút, Vĩnh lộc, Thanh hóa hồi đó còn hoang sơ heo hút. VR3D số hóa xong bức tượng phỗng đá cổ này thì rừng đã tắt nắng, núi non mùa đông tối sầm, không khí lăng mộ lạnh lẽo quá không dám làm thêm nữa. Đói, lạnh và hơi sợ nên vội vã thu đồ chạy thẳng về Hà nội. Các hiện vật trong bộ sưu tập này được VR3D số hóa rải rác trong một quãng thời gian kéo dài hàng chục năm, từ nhiều di tích trên khắp đất nước. Mặt bằng thiết bị, công nghệ 3D thời gian đầu không được như hiện nay, nhưng các bạn có thấy chất lượng vẫn tốt phải không? Đó là vì trên từng hiện vật chúng tôi đều cố đạt chất lượng tối đa, cố vượt ngưỡng kỹ thuật (so với nước ngoài) tại thời điểm đó. Lúc đó VR3D luôn làm bằng "tâm huyết" nên công sức, chi phí, thời gian đều coi là thứ yếu.
Các di sản văn hóa cổ này nằm rải rác ở khắp các địa phương, chỗ thì được bảo vệ cẩn thận, chỗ thì hoang vắng um tùm. Có bức thì ở trên nóc nhà, cái thì ngay giữa ruộng - vật liệu thì phức tạp đủ loại, hình dáng thì ngóc ngách bất thường. Nơi làm việc thường là chỗ thờ tự nên rất chật chội, thao tác vướng, ánh sáng tối tăm. Cách thức số hóa lại phải thật trân trọng, không được gây phản cảm hay nghi ngại về an ninh... cho cư dân địa phương. Để đạt kết quả thật chuẩn xác trong những điều kiện đa dạng, nắng mưa thất thường như thế là thách thức rất lớn, cần kinh nghiệm và lượng dụng cụ cũng khác thường. Muốn có kết quả tốt VR3D thường dành cả buổi đến tận nơi, khảo sát kỹ thực địa để về lên phương án tối ưu, đặt mua hoặc chế tạo đủ đồ gá rồi mới sắp xếp lên đường số hóa (cũng có hiện vật dễ gặp là số hóa được ngay nhưng không nhiều và khó hoàn hảo). Đi cũng nhiều, nên VR3D thường phải tiết kiệm chi phí, thời gian bằng cách lên kế hoạch cho từng vệt địa bàn, sau khi số hóa hiện vật này trên đường về tranh thủ khảo sát hiện vật tiếp theo. Hoặc luôn có phương án 2 để nhỡ trục trặc ở di tích này thì chuyển ngay sang di tích gần đó cho đỡ mất 1 ngày di chuyển.
VR3D chỉ là vài cá nhân, trong quá trình số hóa di sản có thể bị cản trở bất cứ lúc nào, bởi bất cứ ai, từ các cụ trông di tích, trưởng thôn, dân phòng... đến cả mấy anh nghiện. Nhiều chuyến đi chuẩn bị kỹ lưỡng của VR3D phải buồn lòng về không vì những lý do cũng khá "di sản": như vào khu di tích vắng bị mấy anh nghiện cà, đi đường lạ bị giao thông phạt hay bị các cụ cáu vì làm lâu quá... (Nhiều lúc các cụ đang bận việc gia đình, ra mở cửa di tích rồi trông mấy ông VR3D làm cả ngày thì đúng là cũng sốt ruột thật). Có di tích vừa dựng chân máy đã thấy mấy anh thợ ảnh gọi trưởng thôn đến đuổi, vì lý do chỗ này người lạ phải có giấy phép của VH huyện mới được quay phim, chụp ảnh. Thôi đành dành thời gian, tiền bạc của mình đi số hóa nơi khác vậy, chỗ này để vài chục năm nữa nếu còn thì huyện họ tự làm... Đó chỉ là những trở ngại đời thường, còn những khó khăn khi phải lo chi phí nâng cấp máy móc định kỳ, độ chế thiết bị hay tìm hướng để lập trình những tính năng chuyên ngành mới là nan giải nhất.
Số hóa 3D cũng như mọi ngành nghề khác, làm tạm với chất lượng thấp thì dễ : mua máy chụp quét có sẵn là xong, phần trưng bày thì đi gửi ở server của các dịch vụ nước ngoài. Còn muốn cố gắng đạt tới độ hoàn hảo cao là rất khó: cần tự chủ rất nhiều khâu. Để đảm bảo cho hiện vật ảo được tương tác với những tính năng chuyên ngành mà vẫn nhanh, an toàn trên trình duyệt cần phải làm chủ một qui trình công nghệ đồng bộ, xuyên suốt từ các thiết bị quét qua các quá trình xử lý hậu kỳ, tối ưu, nén, mã hóa...rồi đến nền tảng lưu trữ và trưng bày online. Qui trình này nghiên cứu xây dựng rất kỳ công nhưng nó đã giúp VR3D giữ 1 vị thế khó so sánh về chất lượng và công nghệ.